Soạn Bài Tỏ Lòng Của Phạm Ngũ Lão
- Những nét cơ bản về tiểu sử, sự nghiệp, phong cách tác giả
- Hoàn cảnh lịch sự - xã hội: hoàn cảnh sáng tác (xuất xứ) cụ thể của tác phẩm.
- Đặc trưng cơ bản về thi pháp trung đại.
Thứ hai, kiến thức cơ bản. Bao gồm:
- Nghĩa của từ, ngữ (phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ - nếu bằng chữ Hán).
- Các phép sử dụng từ ngữ
- Hình ảnh, tâm sự nhân vật trữ tình
- Ý nghĩa, giá trị đối với hiện tại
- Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), người làn Phù Hủng nay thuộc huyện Ân Thi, Hưng Yên.
- Thời Trần, các quý tộc có đất phong (gọi là điền trang, thái ấp), quân đội riêng. Trong phủ đệ của mỗi quý tộc thuộc quyền có ba hạng: gia nô (nô bộc), gia binh, gia tướng (binh lính, tướng lĩnh) và gia khách (khách nuôi trong nhà). Phạm Ngũ Lão là gia khách của Trần Hưng Đạo, sau hành cong rể (lấy con gái nuôi), trong coi đạo quân hữu vệ (gia tướng).
- Trong hai lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ 2 và 3 (1885 - 1888), Trần Hưng Đạo tổng chỉ huy toàn quân (gồm quân của nhà vua và các quý tộc), cùng gia binh đã làm nên đại thắng. Phạm Ngũ Lạo trưởng thành trong hai cuộc chiến này, lập được nhiều công lớn, là một trong những vị tướng dũng mạng, anh hùng lừng lẫy.
- Nhưng điều quan trọng, ông là một người văn võ song toàn. Bởi lẽ, nếu không có văn tài, ông không thể có tác phẩm để đời - Thuật hoài (tỏ lòng).
- Đây là một bài thơ Đường luật tứ tuyệt (tuyệt cú), viết bằng chữ Hán.
- Bài thơ chia làm hai phần: hai câu đầu, nêu sự vật; hai câu sau, nêu cảm nghĩ, tính sử thi. Chỉ qua hai nét phác họa (cảnh, người) đã làm nổi lên vẻ đẹp người anh hùng và thời đại anh hùng đời Trần mà sử quen gọi là Thời đại Đông A - Hào khí Đông A (do chiết tự chữ Trần, theo lối Hán tự).
- Bài thơ nằm trong hệ thống văn họ Hào khí Đông A mà một số tác phẩm đã được học trong chương trình THCS: Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Phò giá về kinh của Trần Quang Khải.
Câu 1. So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ "múa giáo" chưa thể hiện được hết ý nghĩa của hai từ "hoành sóc". "Hoành sóc" là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hưởng, từ "hoành sóc" đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.
Trong câu thơ đầu này, con người xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con người cầm cây trường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại được đặt trong một không gian, thời gian như thế thì thật là kì vĩ. Con người hiê n ngang ấy mang tầm vóc của con người vũ trụ, non sông.
Câu 2. Câu thơ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu" có hai cách hiểu : Thứ nhất, ta có thể hiểu là "ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu". Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật...). Vì th ế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.
Câu 3. Tỏ lòng là bài thơ nói chí. Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món "nợ công danh" mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý "chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước". Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh được coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dâ n, với nước. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn "thẹn" vì mình cha được như Vũ Hầu Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nước giúp đời.
Câu 4. Trong câu thơ cuối, nỗi "thẹn" đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng. Phạm Ngũ Lão "thẹn" vì chưa có được tài năng mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng (Khổng Minh - đời Hán) để giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những n& #7895;i thẹn có giá trị nhân cách - nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non sông.
Câu 5. Người xưa nói "Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách". Câu nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ "Tỏ lòng". Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần. Âm hưởng anh hùng ca của thời đại do những con người ấy tạo nên và cũng chính âm hưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, để s̒ 1;n sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Tinh thần và ý chí ngoan cường của những con người ấy sẽ vẫn mãi là lí tưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.
Nhận xét