Nhãn Tự Trong Thơ (Thi Nhãn)

Trước tiên, thiết tưởng cũng nên bàn qua về chữ . Trong khi tiếng Việt chúng ta chỉ có một chữ là ,… thì từ Trung Quốc (cũng nằm trong lớp từ mượn Hán - Việt) có đến hai chữ là và .

Chữ (con mắt) là biến thái từ chữ hay có gốc từ tiếng Mã Lai (người Mã cũng gọi mắt là med, mad). Thế nhưng khi biến thành từ (đi đôi với chữ mắt) có đến trên 80 từ (theo Đại Nam quốc âm tự vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của - 1896 thì chưa có từ hay .

Chữ do chữ chỉ nghĩa và chữ chỉ thanh tạo nên. Nhưng ở đây chúng ta không tìm hiểu cơ cấu của chữ mà chỉ cần tìm nghĩa của nó thôi.

Trong từ điển Trung Quốc chỉ có , , còn chữ là do người Việt chúng ta Việt hoá từ mà thành. Từ nguyên giải thích là “văn tự trung chi tinh luyện chi tự dã” (chữ rất tinh luyện trong văn từ) rồi dẫn chứng câu trong Thương Lang thi thoại: Thi dụng công hữu tam: viết khởi kết, viết cú pháp, viết tự nhãn (nghĩa là: dụng công trong thơ có ba điểm chính: một là mở đầu và kết luận; hai là cú pháp; ba là tự nhãn). Từ Hải cũng giải thích như từ nguyên, chỉ nói thêm . Đến từ thì các từ điển đều giải thích giống nhau:

- Nghĩa 1: Thi nhân đích thưởng lãm năng lực, quan sát lực (chỉ năng lực quan sát của thi nhân).

- Nghĩa 2: Chỉ nhất cú thi hoặc nhất thủ thi trung tối tinh luyện truyền thần đích nhất cá tự (chỉ một câu hay một chữ cực kì tinh luyện mang tính truyền thần).

: Tiếng Anh dịch là working, diction (nôm na là cách diễn đạt, cách chọn từ, chữ) cũng có khi dịch là workey. Từ điển Pháp - Hoa cũng dịch là mot cle, mot choisi, langage, terme. Trong từ Trung Quốc cũng chỉ nói đến , chứ chưa bao giờ thấy nói đến , có lẽ trong chữ không có nghĩa là quan kiện (then chốt), yếu điểm. Hơn nữa, khi nói đến từ mục thì mục có nghĩa khác chứ không phải chữ hay, chữ then chốt cốt yếu làm nổi bật câu thơ.

Như vậy, muốn tìm hiểu sâu sắc một bài thơ không thể bỏ qua các (có dụng ý của thi nhân). Cổ nhân từng dạy: Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, soi vào đôi mắt có thể thấy được hồn người, thấy cái ẩn chứa sâu kín bên trong, cái vô thanh không thể nói bằng lời, qua đó có thể nhận ra thông điệp mà người viết muốn nhắn nhủ, tâm tư muốn ký thác, “đọc” được cái hồn của sự miêu tả hay nhân vật trong tác phẩm.

Nhưng tại sao trong thơ phải có tự nhãn, thi nhãn? Bởi thơ luôn quý sự hàm súc, chữ ít mà nghĩa nhiều, cho nên phải cân nhắc, chọn lọc, tìm chữ, hạ câu, phải đa tư, đa lự, năm lần bảy lượt thôi sao(*), khiến cho bản văn phải có chữ, có câu cơ kỉnh, như Bắc đẩu sáng chói giữa ngàn sao, như trụ cột đứng giữa cung điện thi ca. Chữ cơ kỉnh, Bắc đẩu, trụ cột trong câu chính là thi nhãn, tự nhãn vậy.

Để làm sáng tỏ phần nào về nhãn tự (thi nhãn), xin dẫn chứng vài bài bình giảng, phân tích của các nhà lý luận, phê bình tiêu biểu: Khổng Đức, Nguyễn Thế Duyên,…

- Trong bài từ “Ngọc Lâu xuân” của Tống Kỳ có câu: “Hồng Hạnh chi đầu xuân ý náo” (nghĩa: Đầu cành cây hạnh đang nở những nụ hoa hồng, bướm ong nhốn nháo vây quanh làm cho ý xuân cũng rộn ràng). Then chốt trong câu là chữ (ồn ào, náo nhiệt) nghe như đơn giản mà thật ra không có chữ nào thay thế được. Ví như có thể đưa ra các từ (đậm đà), (tràn đầy), (tốt đẹp) hay (đến) cũng là tiếng trắc có nghĩa đấy nhưng làm cho câu thơ mất sống động, rồi ảnh hưởng đến toàn bài, mất chất thơ. Và chỉ có chữ náo mới gây cho độc giả cảm giác, âm thanh vo ve của bầy ong bay quanh hoa hạnh, phảng phất mùi thơm xông vào mũi, thêm khí hậu ấm áp nhẹ mơn man làn da. Các cảm giác đó như lẫn lộn vào nhau, như chất men nung nấu tâm linh khiến người ngây ngất trong bầu không khí lung linh sống động, bầu khí đó chính là xuân ý vậy.

- Đỗ Phủ trong bài “Khúc Giang đối vũ” có câu: “Lâm hoa trước vũ yên chi…” chữ cuối câu thơ khắc trên đó bị mờ đi, phải mời các danh gia hậu bối tìm chữ bổ sung. Tô Đông Pha điền vào đó chữ (ướt át); Hoàng Sơn Cốc đưa ra chữ (già nua); Tân Khí Tật đề nghị chữ (mềm yếu); nhà sư Thích Ấn thì dùng chữ (rơi rụng),… Yên chi vốn màu hồng nên các chữ đưa ra đều có nghĩa thích hợp, nhưng đến khi tìm được tập thơ của Đỗ Phủ mới thấy đó là chữ (ẩm ướt). Nghĩa cả câu là “màu hồng của cánh hoa rừng gặp mưa trở nên ướt át”. Mọi người cúi đầu, thấy không sao bằng Đỗ Công Bộ. Thấp chính là thi nhãn của câu thơ.

Bài thơ “Mộ” thơ hay, rất hay và rất độc đáo về nội dung và nghệ thuật, kể cả ngay trong Duyên)

         

Quyện điểu qui lâm tầm thúc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

                  :       

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.

                                              (Nam Trân )

Đây là bài thơ tả cảnh nếu không nói là duy nhất thì cũng là cực kì hiếm hoi đã lấy hình ảnh con người làm trung tâm của bài thơ và đấy, theo tôi, chính là sự khác biệt giữa một danh nhân văn hoá với những nhà thơ khác. Việc “bao túc ma hoàn” (xay ngô xong) với việc “lô dĩ hồng” (lò than hồng) là hai việc độc lập với nhau, chẳng hề có chút quan hệ gì, thế nhưng chính cô gái, chính con người đã làm cho những thứ rời rạc ấy có mối liên kết với nhau. Người đọc như có cảm giác rằng chính vì cô gái xay ngô xong nên lò than mới rực hồng.

Chúng ta hãy đọc lại câu cuối bài thơ  “Bao túc ma hoàn / lô dĩ hồng”

Câu thơ bị ngắt làm đôi, nhịp thơ nhanh khác hẳn với nhịp thơ của hai câu thực càng làm cho người đọc có cảm giác “động” của câu kết. Tiếng ở cuối bài thơ làm cho không gian bừng sáng. Giữa khung cảnh sâm sẩm tối ở một miền rừng núi hoang vắng, hình ảnh bếp lửa hồng rực rỡ gieo vào lòng người đọc một cảm giác tươi sáng ở phía trước. Một số nhà phê bình văn học thường ví bếp lửa hồng như một niềm tin vào lí tưởng hay những gì khác nữa, tôi cho rằng như thế quá khiên cưỡng, có vẻ chính trị hoá văn học, nó chỉ làm cho bài thơ mất đi vẻ đẹp đích thực vốn có. Theo tôi, nếu hai câu thực là một bức tranh màu xám thì hai câu kết là một bức tranh màu hồng. Đặt hai bức tranh cạnh nhau và giữa hai bức tranh ấy là hình bóng một cô gái, cụ đúng là một thiên tài. Có phải cụ muốn nói: Con người, chỉ có con người mới làm nên sự thay đổi kỳ diệu này?

Các nhà thơ mới của chúng ta cũng rành về sử dụng tự nhãn, như:

- Hàn Mặc Tử: “Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối

                        Gió thu lọt cửa cọ mài chăn” (Đêm không ngủ)

- Bích Khê: “Buồn lưu cây đào xin hơi xuân

                   Buồn sang cây tùng thăm Đông quân” (Tỳ bà)

- Yến Lan: “Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt

              Đường chờ xe sông nước ước mong thuyền” (Bình Định 1935)

Những từ đều là tự nhãn.

Tóm lại, thơ quý ở sự chọn lựa, trau luyện chữ. Tuy nhiên, những nhà thi học xưa cũng từng nhắc nhở là nên chú trọng vào ý là hơn (ý dĩ thắng), chứ không nên coi trọng chữ là hơn (bất tự dĩ thắng). Cho nên chữ bình thường thì phải biểu hiện được ý lạ, chữ cũ kỹ thì ý phải mới mẻ, chữ chất phát thì phải có màu sắc. Thơ là nghệ thuật ngôn từ. Người đọc thơ thường xuyên và người làm thơ sẽ phát huy năng lực phát hiện thi nhãn, sử dụng thi nhãn trong thơ. Bạn yêu thơ, người thường tiếp xúc với văn chương, sử dụng chữ nghĩa chúng ta đọc những điều này thiết tưởng không phải là vô ích vậy.

_______________________________________

(*) thôi xao: sử dụng hai từ này thú vị:

(779 – 843) tên chữ Lãng Tiên, hiệu Kiệt Thạch Sơn Nhân, là một nhà thơ Trung Quốc thời Trung Đường. Ông cùng với Mạnh Giao, Lý Hạ được các nhà nghiên cứu văn học liệt vào hàng tiêu biểu của phái thơ “khổ ngâm” (sở dĩ gọi vậy là vì các thi sĩ thuộc phái này thường ngâm thơ ra rả suốt đêm, mong tìm được một tiếng lạ lùng hoặc hạ được một vần khó khăn. Giả Đảo có bài thơ “Tuyệt cú” bộc lộ sự khổ ngâm này (dịch): Hai câu làm ba năm / Ngâm lên lệ ướt dầm / Tri âm không thưởng thức / Núi cũ trở về nằm).

Khi ở Trường An, có lần Giả Đảo bị bắt trói mất một buổi chiều chỉ vì xô phải quan  Doãn  Phủ Kinh Triệu Lưu Thế Sở, khi ông đang đi giữa đường, ngâm nga tìm vế đối cho câu “Lạc diệp mãn Trường An” (lá rụng đầy Trường An), bất chợt nghĩ ra câu “Thu phong xuy Vị thuỷ” (gió thu thổi sông Vị). Cũng ở Trường An, có lần Giả Đảo cưỡi lừa ngâm thơ, chợt nghĩ ra được hai câu:

Điểu túc trì biên thụ

Tăng xao nguyệt hạ môn.

                           :               Chim ngủ cây bên ao

                                                     Sư gõ cửa dưới trăng

Nhưng ông lưỡng lự, không biết nên dùng chữ “thôi” (đẩy) hay chữ “xao” (gõ), nên vừa đi vừa đưa một tay ra gõ rồi lại đẩy mà không đẻ ý đến xe của Hàn Dũ đang chạy qua. Hàn Dũ dừng xe, hỏi chuyện rồi khuyên dùng chữ “xao”. Từ đó hai người quen nhau và cũng từ đó hai từ “thôi xao” được dùng để chỉ sự đẽo gọt từ ngữ một cách chi li. (phỏng theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).

làm cho bức tranh vẽ người hay thú linh hoạt, sống động y như thật. Tài nghệ của người hoạ sĩ được khẳng định, thể hiện qua việc vẽ con mắt. Thế nên trong hoạ phẩm, con mắt phường được vẽ sau cùng và nếu như người hoạ sĩ này tôn trọng một bậc hoạ sư nào đó thì cố thỉnh mời cho được người này đến để “điểm nhãn”, tức là hoàn thành nét vẽ cuối cùng của bức tranh: con mắt.

Việc này lấy từ điển tích “ô hoạ long điểm nhãn” của Trung Quốc.

Lương Võ Đế sùng mộ việc trang hoàng chùa Phật nên thường sai Tăng Dao hoạ nơi các chùa. Chùa An Lạc ở nơi Kim Lăng có vẽ bốn con rồng trắng song không có vẽ mắt, Tăng Dao thường bảo nếu chấm vẽ mắt rồng (điểm nhãn) thì nó sẽ bay đi. Người ta không tin, cố nài nỉ Tăng Dao chấm vẽ mắt. Trong chốc lát, sấm sét nổi lên phá vỡ bức tường, hai con rồng vừa “điểm nhãn” cưỡi mây bay lên trời, còn hai con chưa vẽ mắt vẫn ở chỗ cũ. (Theo “Lịch Đại danh hoạ ký” đời Lương).

Do đó, trong quảng đại quần chúng mới ứng dụng điện tích nầy trước khi bắt đầu lễ hội múa Lân Sư Rồng: Khi khai trương một con vật mới, người ta phải làm lễ “khai quang điểm tinh” (hiểu nôm na là điểm mắt, vì khi chế tạo đầu lân, sư, rồng, các nghệ nhân bao giờ cũng chừa lại hai con mắt). Sau khi hoàn thành tại cơ sở sản xuất, vào một ngày tốt, các chú lân, sư, rồng sẽ được đưa tới chùa hoặc trước bàn thờ Tổ thực hiện nghi thức “khai quang điểm nhãn” với một dấu chấm châu sa vào giữa trán hoặc lưỡi để chính thức hoạt động. Cúng Tổ và điểm mắt rồi thì lân, sư, rồng mới “sống dậy” và múa được. Khi các con vật này đã hư cũ thì người ta sẽ hoả táng nó để “trả về trời”.

Trong âm nhạc, các ca từ cũng là nơi để người nghệ sĩ tài hoa trau chuốt, tinh luyện từ ngữ đến mức độ truyền thần, xin đơn cử một phân tích ngắn của người cảm thụ:

Đây khách ly hương mấy thu vàng ấm

Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng

Mơ tới bên em, em tô quầng mắt

Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung

                                                                  (Đoàn Chuẩn - Tình nghệ sĩ)

Tôi thấy nhạc sĩ Đoàn Chuẩn sử dụng ngôn ngữ thật thần kỳ. Mèn ơi …tôi chịu hai tiếng “vàng ấm” quá xá. Ta chỉ nghe nói “vàng phai”, “vàng úa”, “vàng võ”, “vàng khè”, đôi khi ta nghe nói “vàng óng”, nhạc sĩ gieo hai tiếng “vàng ấm” làm tôi ngất ngư con tàu đi… (Hoàng Hải Thuỷ - Vàng phai mấy lá).

Đã bàn đến nhãn (mắt) mà không bàn đến thanh nhãn (mắt xanh) ắt cũng hơi… xốn con mắt. (thanh nhãn) Do tích Nguyễn Tịch đời nhà Tấn bên Trung Quốc, người rất ưa rượu, đàn. Làm quan rồi cáo bệnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn, Sơn Đào, Hướng Tú và Vương Nhung, người đời thường gọi là “Trúc lâm thất hiền”. Nguyễn Tịch có thái độ lạ lùng khi tiếp khách, hễ là hạng quân tử, hiền tài, hạng người vừa lòng mình thì Nguyễn Tịch nhìn thẳng bằng tròng mắt xanh; trái lại, khách là kẻ tầm thường, người không vừa lòng mình thì ông nhìn bằng đôi tròng trắng.

Do điển đó, sau này người ta dùng chữ “mắt xanh” để chỉ sự bằng lòng, vừa ý. Như Từ Hải (Truyện Kiều – Nguyễn Du) nói với Thuý Kiều: “Bấy lâu nghe tiếng má đào, mắt xanh chẳng để ai vào có không?” là ý muốn hỏi: Nàng chưa thấy ai là người vừa ý, đẹp lòng phải không? Tức là nàng chưa tiếp ai bằng… mắt xanh. Tóm lại, mắt xanh chỉ sự tinh tường trong phát hiện, công tâm trong đánh giá, sự trân trọng người tài, người tốt, người mình yêu… Người phát hiện ra “thi nhãn” phải chăng cũng là người có “thanh nhãn”?

Trong lĩnh vực phê bình văn học, người ta cũng lấy ẩn dụ “mắt xanh” này dành cho nhà phê bình, lý luận đã phát hiện ra một tác phẩm hay, độc đáo, một tác giả thiên tài hay một tài năng đích thực, một yếu tố hết sức quan trọng trong sứ mệnh cao cả của việc phê bình văn học.



Next Post Previous Post