Chuyện Bản Dịch Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư (Tùy Bút Hoàng Đằng)

Thời gian này, ở nước ta, trên các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận ồn ào về việc thay đổi bản dịch bài thơ Nam Quốc Sơn Hà - tương truyền là của Lý Thường Kiệt - trong sách Giáo Khoa Ngữ Văn lớp 7.

Người viết bài này đọc báo, xem TV tìm hiểu xem sự thật như thế nào; bây giờ xin chia xẻ với bạn đọc những gì mình biết. . Vì có sự sửa chữa nên mới có một chữ " dưới phần nguồn gốc bản dịch thơ là " ". Điều này được cả Hội Đồng Biên Soạn thông qua". Giáo sư Nguyễn Khắc Phi cho rằng "nếu dùng bản cũ phổ biến, phải sửa lại từ và chữ thành chữ thì mới tốt.

Trong những lý giải của GS Nguyễn Khắc Phi, phần nguyên tắc tôn trọng văn bản khi sử dụng, đã được Tiến sĩ Phạm Văn Tuấn, Viện Nghiên Cứu Hán - Nôm "sửa lưng". Theo TS Phạm Văn Tuấn, sách giáo khoa trích dẫn câu đầu tiên khác với nguyên bản dịch thơ của Lê Thước + Nam Trân trong cuốn , thì Hội Đồng Biên Soạn nên dùng từ ... hoặc ghi rõ còn nếu ghi là , như thế mặc định đã trích dẫn nguyên bản của phần dịch ấy. "Nhóm làm sách đã làm sai, làm không đúng thao tác"

Nhà giáo Huỳnh Trung Vũ cũng đưa ra ý kiến phản bác lý giải của GS Nguyễn Khắc Phi về một số điểm như sau :

- Giáo sư Nguyễn Khắc Phi, Tổng chủ biên sách giáo khoa Ngữ văn 7, Tập 1, cho rằng từ " " không hay, rất dễ hiểu nhầm thành số phận đã định; trong khi " " là một câu thơ rất rõ, nghiêm túc, khẳng định một thực tế là nước ta đã được cắm mốc xác định lãnh thổ, không tham lam của người và cũng không chấp nhận ngoại bang xâm chiếm; điều này là hiển nhiên, đã được "Trời"- bậc cao nhất cai quản cả thiên đình và địa giới theo cách nghĩ của người xưa " "!

- Giáo sư (Nguyễn Khắc Phi) biện minh rằng chữ " " là chính xác,.. Xin bàn về nghĩa của từ này: trong tiếng Việt, người ta nói "ánh trăng vằng vặc", là ánh trăng sáng, soi rõ mọi vật; còn nói "sách trời vằng vặc" là không phải tiếng Việt. Nếu chấp nhận cách hiểu "vằng vặc" là một tính từ bình thường có nghĩa là "rành rành" "rất rõ ràng", "không thể chối cãi" thì, từ nay trở đi, sẽ không ai ngạc nhiên khi đọc, trong bài phát biểu của một chính khách, "chủ quyền biển đảo của chúng ta là một thực tế vằng vặc" hay cái "ý đồ của các thế lực thù địch quá vằng vặc!"; thầy cô sẽ ghi sổ liên lạc cho học sinh: "Tiến bộ vằng vặc"; hay chủ nợ viết cho con nợ: "Nợ vằng vặc có giấy tờ hẳn hoi nhá..."!

- Từ " ", ở cuối bản dịch (cũ) quá đủ nghĩa rồi: Chúng bây xâm phạm đất đai tổ tiên của ta thì ta đánh cho "tơi bời" không kịp cuốn cờ, không còn manh giáp. Sao lại phải đổi thành "tan vỡ"! Ngữ cảnh này sử dụng "tan vỡ" không phù hợp. Từ này hàm chút "tiếc nuối" một cái gì đó đã không còn nguyên vẹn, do một sự cố nào đó: cuộc tình "tan vỡ", chiếc cốc rơi xuống đất, "tan vỡ"... Chứ đâu ai nói "bọn trộm chó đã bị dân làng đánh tan vỡ"!

- Bây giờ nói đến dịch, giáo sư Nguyễn Khắc Phi cho rằng phải đảm bảo " " trong dịch thuật. " " là phải tôn trọng văn bản gốc, thế mà giáo sư cho rằng phải dùng vần trắc (trong khi bản gốc dùng vần bằng), vì "khi nào cần đến sự quyết tâm, sự đấu tranh thì nên dùng vần trắc; như thế biểu đạt tình cảm hiệu quả hơn, phù hợp hơn".

-" " là mạch lạc, dễ hiểu, " là êm tai, có tính thẩm mỹ. Nhưng, như đã phân tích ở trên, tiếng Việt trong bản dịch mới là "lạ", vần thơ lại "trúc trắc" khó đọc, kiểu hơi khiên cưỡng; như vậy, 2 tiêu chí này cũng khó đạt tới.

Trong đợt thăm dò dư luận do Vnexpress tổ chức, tính đến ngày 14/11/2024, có 1335 phiếu cho ý kiến thì trong đó, 1,306 phiếu thích bản dịch của cụ Trần Trọng Kim (chiếm 98%), chỉ có 29 phiếu thích bản dịch của cụ Lê Thước + cụ Nam Trân (chiếm 2%).

Những vị trong ban biên soạn sách giáo khoa có thừa kiến thức để biết, giữa bản dịch của cụ Trần Trọng Kim và bản dịch của cụ Lê Thước + cụ Nam Trân, bản dịch nào "đạt" hơn. Tuy nhiên, họ ngụy biện rồi chọn bản dịch của cụ Lê Thước + cụ Nam Trân, cớ sao?

Có thể họ bị ám ảnh bởi bệnh "đổi mới" thời thượng, mà, vì bận tâm đến nhiều chuyện khác, quên mất "đổi mới" là phải chọn cái tốt hơn, điều tốt hơn để thay cho cái cũ, điều cũ đang dùng. "Mới" hơn "cũ" thì thay thế, còn "mới" thua "cũ", xin hãy dùng tạm "cũ" để chờ có sáng kiến, phát minh.

Chưa thỏa mãn, người viết bài này muốn tìm thêm nguyên cớ .

Còn cụ Lê Thước, sau Cách mạng tháng Tám (), tham gia Hội Đồng Cố Vấn Giáo Dục. năm, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cụ được cử làm Chủ Tịch Uỷ Ban Tăng Gia Sản Xuất tỉnh . Trong năm đó, con trai cả của cụ là Lê Thiệu Huyhy sinh ở Thakkhet (). Năm, cụ được bầu vào Ủy Ban Trung Ương Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam.năm, cụ được bầu vào Ban Chấp Hành Uỷ Ban Mặt Trận Liên-Việt toàn quốc. Sau năm , cụ làm cán bộ phiên dịch, hiệu đính, chú thích, giới thiệu các tác ph& #7849;m Hán-Nôm chọn lọc ở bậc trung học và đại học tại Nha Giáo Dục Phổ Thông, sau chuyển sang Ban Tu Thư thuộc Bộ Giáo dục (Hà Nội). năm, cụ sang làm trong Ban Phụ Trách Ngành Bảo Tồn Bảo Tàng thuộc Bộ Văn Hóa, góp phần quan trọng trong việc phát hiện, sưu tầm hiện vật, và xây dựng Thư viện Hán - Nôm. Đếnnăm, cụ về nghỉ hưu ở tuổi 72 tuổi.

Đồng dịch giả bản được chọn trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 7 là cụ Nguyễn Học Sỹ, bút hiệu là Nam Trân, sau Cách mạng tháng Tám , tham gia kháng chiến, công tác ở Ủy Ban Kháng Chiến - Hành Chính huyện Đại Lộc (tỉnh Quảng Nam), Ủy Ban Kháng Chiến - Hành Chính tỉnh Quảng Nam, rồi làm chánh văn phòng Ủy Ban Kháng Chiến - Hành Chánh. Năm 1954, cụ tập kết ra Bắc, công tác ở Ban Chấp Hành Hội Nhà Văn Việt Nam . Cụ là hội viên sáng lập Hội Nhà Văn Việt Nam. Năm 1959, cụ công tác tại Viện Văn H& #7885;c , chuyên về . Cụ cũng là một trong những cán bộ giảng dạy lớp đại họcđầu tiên ở miền Bắc, do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.

Như vậy, hai cụ Lê Thước và Nam Trân là người của "phe ta".

Thành thử, việc chọn bản dịch của hai cụ là việc đương nhiên.

Dù trong, dù đục ao nhà vẫn hơn."

Đất nước Đại Nam, Nam đế cư.

Sách Trời định phận rõ non sông.

Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm.

Bây hãy chờ coi, chuốc bại vong.

Việc chọn lựa chắc do sáng kiến và quyết định "biết điều" của ban Biên Soạn Sách Giáo Khoa Ngữ Văn, chứ không phải do lệnh của cấp trên. Chứng cớ là ngày 16/11/2024, tại nghị trường Quốc Hội, đại biểu Lê Văn Lai (Quảng Nam) nêu chất vấn về việc tại sao thay bản dịch cũ bài "Nam quốc sơn hà" (được coi là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc) bằng bản dịch mới trong khi bản dịch cũ "đã tồn tại bao đời nay, có chỗ đứng vững chắc trong lòng nhân dân", bộ trư 903;ng Giáo Dục & Đào Tạo Phạm Vũ Luận cho biết quan điểm cá nhân của ông là nếu không cần thiết và không có hiệu quả cao thì không thay thế bản dịch.

Kết thúc bài, người viết xin gởi đi niềm mong ước là ban biên soạn sách giáo khoa cũng như các vị thẩm quyền biết nghe tâm tư nguyện vọng của dân, đứng trước một vấn đề chưa hợp lòng dân, đừng ngụy biện "lấy được", biết nhìn nhận sự thật, bỏ tính hẹp hòi và biết trân quý cái gì hay, cái gì đẹp của toàn dân bất kể chính kiến, tôn giáo, sắc tộc, địa phương, cảm tính ... để khỏi lãng phí nguồn lực quốc gia./.

Next Post Previous Post