Vương Trọng, Một Mai Nếu Bạn Muốn Đi Tìm

Nhà thơ Vuong Trọng

Với tôi điều đó thoạt tiên gây sự ngạc nhiên, và rồi từ ngạc nhiên tôi muốn tìm hiểu sáng tác của họ. Chọn trường hợp Vương Trọng, tôi thực sự thú vị những muốn lục tìm trong từng câu chữ của anh những dấu ấn mờ tỏ tư duy của một người làm toán. Nhưng tôi đã . Điều đó chứng tỏ, tư duy hình tượng và những thăng hoa lãng mạn của thơ đã lấn át những khái niệm khô khan của toán học.

Hãy quan sát anh trong những khoảnh khắc đời sống, những sự kiện đưa đến những rung động trong tâm hồn anh với tư cách là một người làm thơ. Đây là những hoàng hôn tuổi thơ dại, chờ mẹ về từ đồng chiêm của mấy anh em trên bậu cửa:

( Khóc giữa chiêm bao )

Đô Lương quê anh, những bờ bãi ven sông Lam xanh biếc ngô khoai, những núi Quỳ đất đỏ kia là gì mà để lại thật sâu nặng trong ký ức của anh, đến mức dù có sống ở miền quê nào, cũng không thể thay thế được, dù có đi đến đâu cũng không thể có miền đất nào sánh nổi:

( Khóc giữa chiêm bao )

Miền quê gian khổ đó có ngôi nhà thân yêu của anh, có một thời kham khổ, thiếu thốn, nhưng cũng cái thời đó, mọi thứ đều trở thành trớ trêu, nghịch lý. Ví như gia đình anh cũng bao gia đình khác, thiếu ăn, kham khổ là vậy, nhưng vẫn bị . (Thời ấy gia đình nào mà bị quy thành phần thì khốn khó vô cùng! ). Hãy đọc những câu thơ tả thực nhớ về thời gian nan kia của Vương Trọng: ( Phố phường ai giã cối vừng ). Giữa thị thành, nhà ai đang giã vừng, mùi thơm liên tư& #7903;ng tới những ngày gian khó ở quê nhà. Nghe tiếng sấm đầu mùa, điều nhớ nhất là tiếng người râm ran gọi nhau đi bắt cá: ( Nhà quê 1 ). Cơn mưa đầu mùa gọi anh về với những ký ức tuổi thơ, và làm thức dậy trong tâm hồn anh những khát khao sáng tạo: ( Nông dân ).

Có phải vì ở đấy Vương Trọng có những người thân yêu tuyệt vời mà anh mang theo hình ảnh của họ, như một sự ân nghĩa suốt cả cuộc đời anh. Ví như hình ảnh người chị dâu: / / / ( Chị dâu ).

Người chị dâu ấy không những chống chèo, lo toan việc lớn của nhà chồng đã đành, ngay cả những việc nhỏ như đến bữa cơm thường ngày, chị cũng giành chỗ đầu nồi, xới cơm cho cả nhà: Người chị dâu của Vương Trọng hệt như người phụ nữ tôi đã từng gặp, chỉ khác là, trong số những người ngồi quay vòng bên nồi cơm kia, chí ít có một người hiểu chị, chia sẻ với chị. Người đó lớn lên cầm bút viết về những ký ức không quên ấy về ng 32;ời chị dâu của mình. Người cầm bút đó là Vương Trọng. Tại đây cần nhấn mạnh, nếu Vương Trọng không có cái trắc ẩn kia về chị dâu của mình ( cũng như sau này lớn lên với biết bao số phận khác anh gặp trong đời ), chắc gì Vương Trọng đã cầm bút làm thơ. Như vậy, lòng trắc ẩn - biểu hiện cụ thể nhất của lòng nhân ái là nơi bắt đầu của thơ. Nói khác đi, thơ đi từ đó - từ lòng nhân ái, trắc ẩn, và thơ cũng hướng con người đến đ ó.

Có phải là ngọn núi Quỳ nhỏ nhoi mà dù đi qua bao núi, vượt qua bao đèo, anh vẫn luôn luôn nhớ về: . Đó là ngọn núi thuở nhỏ Vương Trọng ( Núi Quỳ ). Hình như ngọn núi này vẫn còn cất giữ rất nhiều những kỷ niệm tuổi thơ của Vương Trọng. Rồi ta sẽ gặp lại núi Quỳ một lần cuối trong thơ anh!.

Nói Vương Trọng đa cảm ngoài nỗi thương nhớ người chị dâu đảm đang, đẹp người tốt nết, người mẹ tảo tần chịu thương chịu khó và ngọn núi Quỳ thân thuộc như trên là chưa đủ. Là thi sỹ, Vương Trọng không giấu những xúc cảm trong trái tim mình. Mỗi lần đi qua nơi hẹn hò gặp nhau giữa anh và người yêu năm nào, trái tim anh lại vang lên những nhịp đập thuở ban đầu:

Cái nơi hẹn hò ấy thường hiện lên giữa chiêm bao

( Khi qua nơi hẹn )

Còn đây là lời tự thú, khi đã trót nhớ vụng thương thầm:

( Tự thú )

Nhưng đây thì không còn là nhớ thương thầm vụng nữa:

( Hẹn tết )

Người đa cảm thì vẫn thường hay cô đơn, vẫn thường không thoát khỏi cô đơn, không thoát khỏi chạnh lòng mỗi khi đối diện với hạnh phúc của người khác. Một lần đi qua hồ Tây thấy thanh niên đi bên nhau từng đôi, anh viết:

( Qua hồ Tây )

Bài thơ không đề năm tháng sáng tác, nhưng tôi dám chắc được viết khi anh đã không còn trẻ. Bỗng nhớ tới nhà thơ Thanh Tịnh những lúc cô đơn nhất, thường nói: ( ! ). Vương Trọng chưa già nhưng chắc cũng không còn trẻ nữa ( nhân vật trữ tình trong bài thơ xưng Anh ) đã thấm thía nỗi đơn chiếc trên trần gian này, chí ít là quanh hồ Tây nổi tiếng tình tứ và lãng mạn này, anh như không chốn nương thân, bất định Điều này thêm một bằng chứng cho thấy Vương Trọ ;ng đa sầu, đa cảm.

Chưa hết, không chỉ đa sầu, đa cảm, Vương Trọng đã không ít những giây phút tuyệt vọng khắc khoải, đợi chờ: ( Đợi em trên đường Pasteur ); Vương Trọng cũng đã bao lần thấp thỏm: ( Thứ hẹn ). Thì ra họ yêu nhau và hẹn cứ đến thứ năm lại gặp gỡ. Tại đây trong hồn thơ Vương Trọng cái của người làm thơ đã lấy mất cái của người làm toán, cái ( Một nửa hồn tôi hóa dại khờ - Hàn Mặc Tử ) tâm hồn người làm thơ đã chế ngự cái cO 11;a con người lý trí :

( Thứ hẹn )

Cho nên không có gì khó hiểu khi anh nồng nhiệt triết lý về tình yêu:

( Triết lý khi yêu )

Tất cả cho thấy Vương Trọng là người sống theo chủ nghĩa tình cảm. Anh gạt sang một bên con người lý trí, con người toán học mỗi khi cầm bút làm thơ. Bởi vậy không khó để nhận ra nét chủ đạo trong thơ Vương Trọng vẫn là giọng điệu trữ tình quen thuộc của thơ ca nói chung, và của thơ ca Việt Nam nói riêng.

Cuối những năm 60 của thế kỷ XX Vương Trọng xuất hiện trên thi đàn với tư cách là một nhà thơ quân đội, tham gia cuộc thi thơ của Tuần báo , cùng với những Phạm Tiến Duật, Vương Anh, Bế Kiến Quốc, Phan Thị Thanh Nhàn...Tác phẩm của anh đoạt giải cuộc thi ấy, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc, và là một đưa anh về Tạp chí Kể từ đó sáng tác thơ, biên tập thơ với anh là nhiệm vụ.

Là nhà thơ quân đội, Vương Trọng để lại trong thơ mình rất nhiều những dư ba chiến tranh. Nhiều cuộc hành quân, những tăng, võng, bạt: ( Bài thơ nằm võng ). Rất nhiều những khoảng lặng nhớ thương đồng đội trên những cung đường gian lao: ( Đi dọc mùa khô )

Viết về chiến tranh, Vương Trọng chọn lối tả thực, hoặc có thể nói Vương Trọng sử dụng thế mạnh của mình là tả thực. Thơ có thể có hai phương thức tư duy cơ bản: hoặc là hoặc là , miêu tả hiện thực và biểu hiện con người tư tưởng, con người tâm trạng của nhà thơ. Miêu tả với ngôn ngữ xác tín, biểu hiện thường với ngôn ngữ biểu cảm. Thơ Vương Trọng nghiêng về hiện thực, nghĩa là anh đứng gián cách với hiện thực, quan sát nó, lựa chọn nhữn g chi tiết để miêu tả nó bằng ngôn ngữ xác tín, đưa nó vào thơ. Trần Đăng Khoa gọi đó là những câu thơ Trang thơ của anh vì vậy hiện lên những khung cảnh chiến trận. Bức tranh về mặt trận Tà Sanh qua những câu thơ thô ráp, ở đó những vệt màu như cày dọc ngang trên mặt vải của một bức sơn dầu hoành tráng mà gân guốc, đầy những chất liệu nóng và chói gắt...cốt để miêu tả cho được cái dữ dội của chiến trường:

...

( Tà Sanh )

Đấy là cơn khát giữa mặt trận Tà Sanh mùa khô. Sức gợi của thơ ở đây chính là hiện thực, là từ hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh. Còn đây là một bức sơn dầu khác, có điểm nhấn xác thực mang tính tự sự cao, mang tính tố cáo mạnh mẽ từ một khung cảnh sau cuộc thảm sát, được tạo ra bởi những câu thơ mang âm trắc, vần trắc thất thường, trong của thơ đã chen lấn, tuy chưa thật đậm dấu ấn tâm trạng của người viết: / / / / / / / / ( Xe dừng Tả Hồ Xìn ).

Với đoạn thơ tả thực rất giỏi này, nếu tạm cất đi câu đầu: và câu cuối:, thì hiện lên nguyên vẹn một bức tranh khách quan của hiện thực, nghĩa là tác giả đã làm xong cái việc thông báo. Phần cảm nhận như thế nào đó tùy thuộc vào từng người đọc. Điều này cho thấy vì sao Vương Trọng thích Đỗ Phủ hơn Lý Bạch*. Đỗ Phủ gần với tranh sơn dầu, Lý Bạch gần với tranh lụa. Thơ Vương Trọng mảng viết về chiến tranh mang rõ rệt cá tính sáng tạo củ ;a anh.

Bao giờ Vương Trọng cũng tìm được một ý nghĩa nông sâu nào đó trước một hiện tượng của đời sống nào đó. Với hai chị em nhà nọ, anh như một người đứng ra an ủi: ( Hai chị em ). Và từ cảm thông, an ủi, anh nhắc nhủ mọi người, lời nhắc nhủ mang sắc thái một lời cảnh báo, đặc biệt là với những bố mẹ khác đang chuẩn bị ra tòa: ( Hai chị em ).

Một ví dụ khác. Những đứa trẻ ngoài giá thú, một hiện tượng bình thường và tương đối hay gặp của những đất nước chiến tranh dài lâu như nước ta, một hiện tượng thường bị người đời ghẻ lạnh: ( Với đứa con ngoài giá thú ). Gặp những hoàn cảnh như vậy, anh thấy cuộc sống đã thừa những vô cảm đối với những con người bất hạnh và thiếu những an ủi cần thiết. Vương Trọng nhìn điều đó theo một cách khác, cách của con người trắc  849;n: ( Với đứa con ngoài giá thú ). Bài thơ mượn lời người mẹ nói với đứa con ngoài giá thú. Với người mẹ không có đứa con nào không phải là con của mẹ. Vương Trọng như hóa thân trong vai người mẹ để nói với con, nhưng cũng là để gửi một thông điệp với người đời về một trường hợp gây không ít những đau thương trong đời sống xã hội.

Chúng ta sẽ nhận ra quan niệm đầy tình người này của người làm thơ qua các trường hợp Mỵ Châu, Thúy Vân, Hòn Vọng Phu...Lấy một ví dụ, Hòn Trống Mái. Đây như một phát hiện của Vương Trọng: nỗi cô đơn cũng đã hóa đá, nhưng hóa thành đôi chim trống mái để mãi mãi bên nhau. Vương Trọng chạnh lòng: (Bên hòn Trống Mái). (Tôi nhớ có lần nhà thơ Văn Thảo Nguyên ở Lạng Sơn về, có một nhận xét thú vị: Phía sau hòn đá hai mẹ con nàng Vọng Phu hóa đ á kia, cũng có một hòn đá hệt như một con hổ đang nằm phủ phục. Văn Thảo Nguyên nghĩ rằng chắc con hổ mỏi rình mẹ con nàng Vọng Phu lâu quá, buồn quá nên cũng đã hóa đá nốt! ) Trở lại những bài thơ của Vương Trọng: Một lần, với em bé còn nhỏ tuổi đã phải một mình mưu sinh hàng ngày đi kiếm củi. Hình ảnh ấy thường đến với anh trong đêm: (Thương cháu bé lên năm gánh củi); Với Chí Phèo, anh mượn giọng Chí để nói với Bá Kiến: (Chí Phèo); Với Trư) 7;ng Chi, anh nhắn nhủ: (Nói với Trương Chi); Với người bạn đồng nghiệp hàng xóm, nhà văn Thái Vượng mệnh yểu, anh thảng thốt: (Hoa quỳnh, nhớ Thái Vượng)...vv

Một ví dụ nữa. Người con dâu về nhà anh. Lẽ thường tình của cuộc sống. Nhưng với Vương Trọng, anh ghi lại khoảnh khắc đó rất hóm hỉnh: (Nói với con dâu). Một lời dặn tinh tế để không làm phật lòng con dâu, lại vừa độ như để nhắn nhủ thành viên mới: (Nói với con dâu). Nói với con dâu thôi nhưng cũng đủ để nhận ra quan niệm sống của Vương Trọng: ...

Chúng ta vẫn thường thừa nhận với nhau rằng toán và thơ thật khác xa nhau, và nếu có một điểm chung nào đó, điểm chung ấy chắc phải rất xa. Thơ tư duy bằng hình tượng, bằng tưởng tượng, bằng ngôn từ, bằng nhịp điệu, thậm chí bằng cả những khoảng lặng trắng tinh giữa hai dòng chữ, giữa hai khổ thơ...Toán tư duy bằng con số, bằng khái niệm, bằng định đề, bằng suy tưởng và suy luận trừu tượng. Toán cần chính xác. Thơ đôi khi cần bay, cần nhòe, cần dừng, cần mN 97;t chút mơ hồ...Hai lĩnh vực này có chung một cảm thức về cái đẹp của sự thăng hoa.

Đây là thơ:

( Đêm xuân )

Còn đây là khi toán đã lấn sân:

(Tản mạn về những cánh diều giấy)

Vương Trọng rất chú ý dùng những đại từ chỉ định biểu thị sự nhấn mạnh về tính chất hiện diện, cụ thể, trước mắt của điều định nói, để làm chính xác thêm điều định nói. Đó là khi toán đang lẫn khuất giữa những câu thơ. Lấy một ví dụ:

( Thị xã màu xanh )

Một ví dụ khác:

Đấy là hai câu lấy từ bài , viết tại sân bay Gia Lâm ngày 19/3/1973, ngày tên giặc lái Mỹ cuối cùng rút khỏi miền bắc. Đoạn thơ có thừa những yếu tố chính xác: tính từ tổ hợp từkết từnhư biểu thị sự khẳng định - một kiểu lập luận của toán!

Một ví dụ khác:

( Nhà Rông )

Phải thừa nhận đây là một sự quan sát và liên tưởng ví von khá thông minh. Nhưng nếu ba câu đầu dùng để miêu tả cái nhà Rông Tây Nguyên, người đọc vẫn chưa thấy tác giả ở đâu cả. Chỉ có câu cuối: là , là tâm trạng, cũng là tình cảm của tác giả. Và tôi cho rằng đấy là câu trong đoạn thơ trên.

Còn đây là mấy câu lục bát, hầu như mỗi câu cõng trên lưng một con số của Nguyễn Bính:

Nhiều con số là vậy nhưng sao đọc lên vẫn không thấy con số át mất phần thơ của lục bát Nguyễn Bính!

Cũng có thể tôi đã có cảm giác tiền định Vương Trọng là nhà thơ xuất thân từ người học toán chăng?.

Vì yêu Nguyễn Du và , Vương Trọng đã có những đóng góp đáng kể để giúp bạn đọc hiểu hơn về . Có lần, anh là người tổ chức các cuộc thi đố Kiều khá lý thú của Đài Tiếng nói Việt Nam, thu hút khá đông đảo thính giả tham gia. Vì say mê Nguyễn Du, Vương Trọng tìm cách dịch lại ( phần thơ ) toàn bộ Thơ chữ Hán của Nguyễn Du hầu hết bằng thể lục bát căn cứ vào dịch nghĩa của Nguyễn Thạch Giang và Trương Chính từ đến Không bàn về quan niệ m dịch, hiệu quả dịch như xưa nay các dịch giả vẫn thường bàn, chỉ nội một việc bỏ công ngồi chuyển thể Thơ chữ Hán của Nguyễn Du ( rồi sau đó dịch lại cả , tác phẩm đã quá hay, quá quen thuộc của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm ), cho thấy tình yêu sâu sắc và đam mê hiếm thấy của Vương Trọng đối với di sản của ông cha.

Nhưng cũng như nhiều nhà thơ khác, Vương Trọng không ảo tưởng với những câu thơ tưởng như gan ruột của mình. Vẫn thường vất vưởng, lang thang trong cõi trần, vẫn thường run rẩy với những câu thơ như đam mê suốt cả cuộc đời, song với Vương Trọng, những trang viết suốt một đời vất vưởng kia, quá lắm cũng chỉ là (Thúy Vân). Trên hết, Vương Trọng vẫn là một ông "đồ gàn" đáng yêu xứ Nghệ, cho dù đi đâu, ở đâu cũng thiết tha với quê hương, giữ từ gi& #7885;ng nói, nết ăn, nết ở của mình. Và núi Quỳ, ngọn núi mà ta đã gặp ở đầu bài viết này vẫn là nơi luôn luôn ẩn hiện trong tâm hồn anh. Như loài cá hồi với bản năng loài có một không hai của chúng ( Bài Cá hồi ), Vương Trọng từ núi Quỳ sinh ra, còn quá sớm, nhưng anh đã dặn: , bởi vì anh quan niệm .

Còn bạn, một mai nếu muốn, bạn sẽ tìm được nhà thơ Vương Trọng!.

Tháng 4 năm 2025

(Nguồn: Tạp chí NV&TP)

Next Post Previous Post