Cái Nhìn Nghệ Thuật Mới Trong Bài Thơ Đây Mùa Thu Tới

Khi chưa đọc tâm trí tôi cứ vẩn lên, cảm nghĩ rằng mùa thu chỉ thích hợp với những hồn thơ cổ điển, với những vần thơ lắng đọng. Còn Xuân Diệu, nhà thơ của mùa xuân, với sự phát triển cảm giác trực tiếp thì không. Hoặc nếu thi sĩ có viết về mùa thu thì đấy cũng chỉ là hòa điệu với cung đàn xưa.

(Thu)

Quan hệ mới xuất hiện trước hết bởi sự đan cài bài thơ những từ ngữ mới, thậm chí dịch trực tiếp từ tiếng Tây sang, trong khi tiếng Việt không thiếu đồng nghĩa: = nhiều ít nhiều = một vài Sau đó là những cách nói mới mẻ, lạ lẫm như (luồng gió), sự nhạt sương mờ, đôi nhánh khô gầy (nhành cây). Người Việt xưa nay chỉ quen với gió lùa, gió luồn vào một cái gì đó. Còn Xuân Diệu, nhà thi sĩ - cách tân, thì lại nghe được Luồn vào một thứ chuyên đi luồn, ch&# 7859;ng những nghe ngộ nghĩnh, tân kì, mà chộp đúng được cái thần thái lén lút của mùa đông đang xâm nhập trái phép vào lãnh địa của mùa thu. Những sáng tạo mới này, tuy thoạt đầu có làm cho thơ Xuân Diệu bị coi là một loại "ông Tây An Nam", nhung đã giác quan hóa, cụ thể hóa được những chuyển đổi vô hình của thời tiết, tạo vật lúc thu sang và quan trọng hơn, bọc lộ một cái nhìn nghệ thuật mới của Xuân Diệu con người và nhà thơ.

Thơ cổ điển, mà tiêu biểu là ba bài và của Nguyễn Khuyến, nói về mùa thu như một khoảnh lặng giao thời giữa hạ và đông. Lúc này, sau những vật vã của nóng đã qua và lạnh sắp tới, tạo vật dường như thiếp đi trong sự ngưng nghỉ. Thơ Yên Đổ, bởi thế, tràn ngập không gian với một bầu trời xanh đầy ám ảnh (Thu vịnh - Thơ Xuân Diệu ngược lại, tràn ngập những vận động chuyển mùa. Những vận động ở hình thái qua độ thường mang dáng vẻ im lìm đã đư 907;c "con mắt thời gian" của nhà thơ phắt hiện.

Tạo vật mùa thu tất cả đang nằm ở trạng thái và Sự hao gầy bắt đầu từ màu sắc đến hình thể: rặng liễu đìu hiu đứng buông tóc buồn như hàng lệ nhỏ. Màu xanh bị lấn dần bởi sắc đỏ héo úa, cành cây hè mập mạp nay trơ xương mỏng manh, dáng núi xa mới ngày nào còn như chạm khắc lên trời giờ đã nhòe sương nhạt khói... Rồi sau đó là sự rơi rụng, chia iìa: hoa rụng cành, chim bay đi, trời hận chia li, người đã vắng trên những chuyến đò ngang...

Thế ổn định mỏng manh của mùa thu - một chiếc cầu thanh mảnh như tơ nhện chăng giữa hai bờ dằn dữ - được Xuân Diệu gợi lên bằng đôi nhánh khô gầy, còn sự chông chênh của nó được nhà thơ biểu đạt bằng bốn phụ âm rung "r" liên tiếp nhau trong một câu thơ bảy chữ:

Mùa thu, tóm lại là mảnh đất bị xâm lược từ cả hai phía. Mùa hè chưa "cắt cầu" (đang còn màu xanh, đang còn thì khuôn mặt mùa đông đã thấp thoáng phía xa:

Sự ngắt nhịp 4-3câu sau đã tạo ra một im lặng chứa đầy âm thanh tiếng ngân (dư thanh) của mùa thu và những tiếng gọi bên trong của con người. Đó cũng chính là sự im lặng hàm súc mà Ma-lac-mê (Mallarmé) đã nói:

Đó là tiếng gọi của thời gian, hối hả và thôi thúc bằng một điệp khúc: Thời gian là dấu hiệu của tàn phai và rơi rụng. Thời gian là sự tuôn chảy "một đi không trở lại" chính ý thức về chứ không phải tuần hoàn, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Xuân Diệu trong toàn bộ sáng tác của anh mà là một trường hợp cụ thể.

(Chiều)

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh người thiếu nữ (chứ không phải người thiếu phụ trong thơ cổ điển) tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì. Nàng có thể nghĩ ngợi? Như ở Lê-ô-na-dơ Vanh-xi, bức chân dung đã hoàn thành, nhưng nụ cười bí hiểm của La Giô-công-dơ thì như còn thách đố với người xem, mặc cho mỗi người lí giải theo cách hiểu của riêng mình. có thể là nhìn ra xa, nhìn mông lung, nhìn mà không thấy gì cả (cái nhìn vào nội tâm), cũng có thể là nhìn xa trông rộng v 899;i nghĩa là thấy trước, biết trước, lường trước tất cả. Và bên tai là tiếng gọi hối hả của thời gian Người thiếu nữ, bình minh của mùa xuân, còn có thể nghĩ gì ngoài tình yêu...

Next Post Previous Post